Mặc dù sự tiến triển trung bình của xơ cứng bên kéo dài khoảng 20 năm, căn bệnh này đã rất ứng biến từ người sang người. Một số người có thể tiếp tục đi bộ, nhưng những người khác cuối cùng sẽ cần xe lăn hoặc các thiết bị trợ giúp khác cho di động hoặc hoạt động khác.
Xơ cứng bên người lớn không được coi là rút ngắn tuổi thọ, nhưng nó dần dần có thể ảnh hưởng đến chất lượng cuộc sống như là cơ bắp trở nên yếu hơn. Cơ yếu hơn có thể ngã nhiều hơn, có thể dẫn đến thương tích.
Các xét nghiệm và chẩn đoán
Không có thử nghiệm duy nhất khẳng định chẩn đoán xơ cứng bên. Trong thực tế, vì bệnh có thể bắt chước các dấu hiệu và triệu chứng của bệnh thần kinh khác như bệnh đa xơ cứng và teo cơ, một số xét nghiệm được thực hiện để loại trừ các bệnh khác.
Sau khi cẩn thận ghi lại lịch sử y tế và thực hiện kiểm tra toàn diện về thần kinh, bác sĩ có thể yêu cầu các xét nghiệm sau đây:
Máu. Xét nghiệm máu được thực hiện để kiểm tra các bệnh nhiễm trùng hoặc nguyên nhân có thể khác của sự yếu cơ.
Chụp cộng hưởng từ (MRI) não và cột sống. Hình ảnh MRI hay các xét nghiệm khác có thể cho thấy dấu hiệu của sự thoái hóa tế bào thần kinh và tìm kiếm các nguyên nhân khác của các triệu chứng, chẳng hạn như bất thường cấu trúc, chèn ép cột sống, bệnh đa xơ cứng và các khối u tủy sống.
Nghiên cứu thần kinh dẫn truyền cảm giác. Các xét nghiệm này sử dụng dòng điện thấp để kiểm tra thần kinh, và có thể cho biết thiệt hại cho các tế bào thần kinh.
Điện cơ (EMG). Trong quá trình thử nghiệm này, các bác sĩ đưa một kim điện cực xuyên qua da vào các cơ khác nhau. Các hoạt động điện của cơ được đánh giá khi co và khi nghỉ ngơi. Xét nghiệm này có thể đo lường sự tham gia của tế bào thần kinh cơ, có thể giúp để phân biệt giữa xơ cứng bên và teo cơ.
Phân tích dịch não tủy. Phân tích dịch não tủy trong chọc dò tủy sống ở lưng dưới, có thể giúp loại trừ bệnh đa xơ cứng và các nguyên nhân khác gây co cứng.
Sau khi các bệnh khác được loại bỏ, bác sĩ có thể thực hiện một chẩn đoán sơ bộ xơ cứng bên. Đôi khi các bác sĩ chờ đợi 3 - 4 năm trước khi được chẩn đoán chắc chắn, bởi vì giai đoạn đầu teo cơ bên (ALS) có thể giống như xơ cứng bên cho đến khi các triệu chứng bề mặt bổ sung một vài năm sau đó. Có thể phải trở lại thử nghiệm lặp lại hơn 3 - 4 năm trước khi chẩn đoán xơ cứng bên được xác nhận.
Phương pháp điều trị và thuốc
Các phương pháp điều trị tập trung chủ yếu đối với xơ cứng bên làm giảm xơ cứng và cải thiện các triệu chứng chức năng. Không có phương pháp điều trị để ngăn ngừa, ngăn chặn hoặc đảo ngược xơ cứng bên. Điều trị bao gồm:
Thuốc. Thuốc có sẵn để làm giảm co thắt cơ (co cứng), bao gồm baclofen, tizanidine (Zanaflex), diazepam (Valium) hoặc clonazepam (KLONOPIN). Những thuốc này được dùng bằng đường uống. Nếu co cứng không được kiểm soát bằng thuốc uống, bác sĩ có thể đề nghị phẫu thuật cấy một máy bơm để cung cấp thuốc baclofen trực tiếp đến dịch tủy sống (intrathecal baclofen).
Các thuốc khác có thể được quy định để điều trị chứng chuột rút hoặc đau liên quan đến co cứng, bao gồm phenytoin (Dilantin) hoặc thuốc giảm đau.
Vật lý trị liệu. Kéo dài và tăng cường các bài tập sẽ giúp duy trì sức mạnh cơ bắp, tính linh hoạt và phạm vi của chuyển động, và để ngăn chặn bất động chung. Massage cũng có thể cung cấp cứu trợ cho các triệu chứng xơ cứng bên.
Trị liệu ngôn ngữ. Nếu cơ mặt bị ảnh hưởng bởi xơ cứng bên, trị liệu này có thể giúp bù đắp cho các hiệu ứng khi nói.
Thiết bị trợ giúp. Có thể được đánh giá định kỳ hay vật lý trị liệu nghề nghiệp để xác định xem cần các thiết bị trợ giúp, như một khung tập đi, gậy hoặc xe lăn khi xơ cứng bên tiến triển.