Trong hầu hết trường hợp, bệnh Paget xương tiến triển chậm. Căn bệnh này có thể được quản lý hiệu quả gần như tất cả mọi người. Biến chứng có thể bao gồm:
Gãy xương. Xương bị ảnh hưởng bởi bệnh Paget lớn, yếu và dễ gãy. Điều này làm cho dễ bị gãy xương. Các mạch máu khác được tạo ra trong các xương này bị biến dạng, vì vậy bị chảy máu nhiều hơn trong phẫu thuật sửa chữa.
Viêm xương khớp. Biến dạng xương có thể tăng số lượng căng thẳng trên các khớp gần đó, có thể gây viêm khớp.
Suy tim. Bất thường của bệnh Paget có thể buộc tim làm việc chăm chỉ hơn để bơm máu đến các vùng bị ảnh hưởng của cơ thể. Ở người bị bệnh tim trước, khối lượng công việc này tăng lên có thể dẫn đến suy tim.
Ung thư xương. Ung thư xương xảy ra trong vòng chưa đầy 1 phần trăm những người bệnh Paget xương.
Kiểm tra và chẩn đoán
Một loạt các xét nghiệm có thể xác định chẩn đoán bệnh Paget xương. Bác sĩ cũng có thể yêu cầu các loại xét nghiệm trong khi điều trị, để xem liệu các loại thuốc có hiệu quả.
Kiểm tra hình ảnh
X quang. Các dấu hiệu bất thường đầu tiên của bệnh Paget thường tìm thấy trên X quang được thực hiện vì các lý do khác. Hình ảnh xương có thể hiển thị các khu vực tái hấp thu xương, mở rộng và biến dạng xương là đặc trưng của bệnh Paget, chẳng hạn như cong của xương dài.
Chiếu xương. Chất phóng xạ được tiêm vào cơ thể. Chất liệu này đi đến các điểm trên xương bị ảnh hưởng nhất của bệnh Paget, sáng lên trên những hình ảnh.
Xét nghiệm
Những người có bệnh Paget xương thường có mức phosphatase kiềm cao trong máu. Họ cũng có thể có tăng hydroxyproline trong nước tiểu, đặc biệt nếu bệnh ảnh hưởng đến nhiều hơn một xương.
Phương pháp điều trị và thuốc
Nếu không có triệu chứng, có thể không cần điều trị. Tuy nhiên, nếu bệnh đang hoạt động - chỉ định dựa vào mức phosphatase kiềm cao - và đang có nguy cơ cao ảnh hưởng đến cơ thể, như sọ, cột sống, bác sĩ có thể khuyên nên điều trị để ngăn ngừa biến chứng, có hoặc không có triệu chứng.
Thuốc men
Thuốc loãng xương (bisphosphonates) được điều trị phổ biến nhất cho bệnh Paget xương. Một số thuốc chống loãng xương được cho dạng uống, trong khi những dạng khác là thuốc tiêm. Thuốc chống loãng xương dạng uống thường dung nạp tốt, nhưng có thể gây kích ứng đường tiêu hóa. Ví dụ như:
Alendronate (Fosamax).
Ibandronate (Boniva).
Pamidronate (Aredia).
Risedronate (Actonel).
Zoledronic acid (Zometa, Reclast).
Nếu không thể chịu đựng được thuốc chống loãng xương, bác sĩ có thể kê calcitonin (Miacalcin), một hormone tự nhiên có liên quan trong các quy định và trao đổi chất canxi xương. Calcitonin là một loại thuốc tiêm. Các tác dụng phụ có thể bao gồm buồn nôn, đỏ bừng mặt và kích ứng tại chỗ tiêm.
Phẫu thuật
Trong trường hợp hiếm, có thể yêu cầu phẫu thuật để:
Trợ giúp chữa lành vết nứt.
Thay thế các khớp bị hư hỏng do bệnh viêm khớp nặng.
Tổ chức lại xương bị biến dạng.
Giảm áp lực lên dây thần kinh.
Bệnh Paget xương thường làm cho cơ thể sản xuất các mạch máu trong xương bị ảnh hưởng quá nhiều. Sự thay đổi này làm tăng nguy cơ mất máu nghiêm trọng trong hoạt động nào đó. Nếu đang lên kế hoạch cho cuộc giải phẫu có liên quan đến xương bị ảnh hưởng bởi bệnh Paget, bác sĩ có thể kê toa thuốc để làm giảm hoạt động của bệnh, một bước có xu hướng giảm mất máu trong phẫu thuật.